Friday, November 22, 2024
No menu items!
spot_img
HomeUncategorizedCâu chuyện một biệt kích Việt Nam Cộng Hòa

Câu chuyện một biệt kích Việt Nam Cộng Hòa

Phạm Phú Khải

Những người lính biệt kích Việt Nam Cộng Hòa. Hình minh họa.

Khắc đậm lời thề trên khép súng

Hẹn ngày trở lại nước nhà yên

Trần Thanh

Tôi từng có cơ hội tiếp xúc với các cựu quân nhân thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở mọi cấp tướng tá úy trước đây. Tôi cũng có cơ hội trao đổi với nhiều thành phần quân cán chính, kể cả những bác sĩ từng phục vụ trong Thủy Quân Lục Chiến. Những cơ hội này đã để lại nhiều ấn tượng đặc biệt trong tôi về tinh thần chiến đấu hy sinh, về tình yêu quê hương đất nước và cho con người Việt Nam, của người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Như đã từng chia sẻ trên Blog này, hiếm ai sống trên đời này mà không trải qua những chấn thương tâm lý hay cảm xúc (trauma) khác nhau. Người lính, dù được huấn luyện và trang bị đến bao nhiêu nữa, sự chết chóc hay thương tích trong mọi cuộc chiến tranh, hẳn sẽ ám ảnh họ mãi. Sự đụng độ và trải nghiệm càng nhiều, thì sẽ càng ghi sâu vào trong bộ óc của một người. Khi chấn thương quá nặng, khả năng bị rối loạn thần kinh, như Post-Traumatic Stress Disorder (PTSD), là khó tránh khỏi. Hình ảnh người dân bị giết chết trong chiến tranh, và các em bé mồ côi, còn ám ảnh mãi trong lòng nhiều người lính. Những người lính thuộc bên đồng minh như Mỹ, Úc v.v… có khi chỉ phục vụ hai năm rồi về lại nước, mà còn bị hệ quả của hậu chấn thương này. Còn những người lính Việt Nam Cộng Hòa thì phải phục vụ mãi, không có sự lựa chọn khi đất nước đang chìm trong khói lửa. Ngay cả khi chiến tranh chấp dứt, sự đầy đọa, trả thù bởi bên thắng trận vẫn chưa ngưng. Nhiều năm tù đầy. Mãi cho đến bây giờ, không còn tù đầy, nhưng vẫn tiếp tục bị bên thắng trận đầy đọa tinh thần, tâm lý. Người lính Việt Nam Cộng Hòa có bao giờ được nguôi ngoai, được có cơ hội lành lặn vết thương!

Mới đây, tôi đã gặp được một người lính Việt Nam Cộng Hòa thật là đặc biệt. Ông tên là Trần Thanh, cư ngụ tại Adelaide từ đầu thập niên 1980. Từ trước đến nay ông chỉ kể lại cuộc đời binh nghiệp của mình cho vợ con trong nhà nghe. Ông hiếm khi nào tâm sự với người ngoài. Có thể vì kể cho người khác nghe không phải là điều ai cũng cảm thấy thoải mái chia sẻ. Nghe vài mẩu chuyện ông kể về cuộc đời binh nghiệp, tôi mong muốn được viết lại câu chuyện này nhân ngày 19 tháng 6, ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thoạt đầu, ông không mặn mà lắm, mặc dầu ông có nói rằng ý tưởng ngồi xuống viết lại thành sách cho con cháu đã có trong ông từ lâu. Ông định vậy, nhưng cho đến nay, vì mưu toan cuộc sống, ông vẫn chưa thực hiện được. Khi biết tôi muốn viết về câu chuyện của ông, ông bảo rằng câu chuyện của ông cũng đâu khác gì câu chuyện của hàng triệu người lính Việt Nam Cộng Hòa khác. Công khó của hàng triệu người đều gian khổ, hy sinh xương máu, trong cuộc chiến. Ông may mắn còn chân tay lành lặn mặc dù những ngày vào đông, đầu ông vẫn giật lên những cơn đau từng hồi bởi những miểng đạn còn trong đầu.

Thuyết phục lắm, ông Thanh mới chịu đồng ý trao đổi cùng tôi.

Ông Thanh bắt đầu đời lính lúc còn rất trẻ. Ông chia sẻ:

Tôi sinh năm 1948, là con trai trưởng trong một gia đình khá giả ngoài Bắc. Tôi theo thầy mẹ di cư vào Nam năm 1954 và lớn lên tại xã Phước Tỉnh. Tôi tham gia đi lính vào lúc 17 tuổi. Khoảng năm tôi 20 tuổi, tôi lập gia đình, thì sau đó một năm, chúng tôi có được đứa con gái đầu lòng, sinh năm 1969. Các lực lượng tôi từng tham gia bao gồm Biệt kích Mike Force, tiểu đoàn 52, Biệt Động quân, Sư đoàn 25, rồi sau cùng là Biệt kích do Bộ Tổng Tham mưu chỉ huy. Toán Biệt kích của tôi thuộc Quân số 1, Bộ Tổng Tham mưu. Tôi phục vụ cho đến khi tôi 26 tuổi, thì bị bắt vào năm 1974.

Phạm Phú Khải: Ông đi lính lúc 17 tuổi, có phải vì ước nguyện của ông và được sự chấp thuận của ba mẹ ông vào lúc đó không?

Trần Thanh: Thành thật mà nói lúc đó tôi học rất giỏi. Nhưng một phần vì tôi giận thầy tôi, nên tôi muốn chọn con đường không còn bị ràng buộc bởi gia đình. Phần khác, tôi nghĩ trong hoàn cảnh đó, tôi không thể ngồi yên được khi đất nước đang dầu sôi lửa bỏng. Cho nên sự tham chiến của tôi cũng là điều khác thường. Tôi phải đi mượn giấy khai sinh của người khác, khai tên giả, tuổi giả, để tôi có thể được tham chiến. Khi tôi vào quân đội rồi, được phục vụ trong các binh chủng khác nhau, tôi cũng không hài lòng với những nơi này, nên lại tiếp tục mượn giấy khai sinh của bạn bè để nộp đơn xin được tuyển vào các binh chủng gây cấn. Binh chủng tôi phục vụ sau cùng là Biệt kích. Nhiều người biết đến tôi qua tên Trần Thanh, hoặc Mai Văn Kim.

Phạm Phú Khải: Vậy ông ở trong Biệt kích được bao lâu?

Trần Thanh: Tôi ở Biệt kích rất lâu, 6 năm tổng cộng trong cuộc đời binh nghiệp 9 năm. Vai trò của toán chúng tôi cũng đặc biệt. Chẳng hạn, lực lượng Trinh sát là đột nhập vào để quan sát tình hình, không được chạm súng, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng. Sau khi Trinh sát báo cáo tình hình, và trước khi đơn vị Hành quân vào, thì Biệt kích vào trước, để dọn đường và để giải quyết nếu có tình huống khó khăn.

Trong thời gian tôi phục vụ, đó là thời điểm dầu sôi lửa bỏng nhất. Hầu như đụng trận với bên địch 7 ngày trên 10 ngày. Có những đêm bị pháo đến nỗi máu tai máu mũi xịt ra. Không thể nào diễn tả được những tình cảnh như thế. Không cần nói về các vụ đụng trận, chẳng hạn khi đi hành quân, lúc phải đi vệ sinh chừng năm phút thôi là đã có cả trăm con vắt bu vào người. Nếu kể ra cho người không biết thì có thể nói mình nói bậy nói xạo. Vậy là thế nào? Tại vì Đơn vị 3 của chúng tôi đến ngay chỗ đó thì mới biết đó là cái rừng vắt. Còn đi hành quân qua miền Tây thì phải đi qua vùng sình lầy. Đỉa to bằng ngón tay. Nó bu cắn khắp người. Thật ra thì người lính trong quân đội không phải ai cũng trải nghiệm giống nhau. Cho nên, có khi mình trải qua và kể lại chưa chắc những người trong quân đội tin, nói gì người ngoài.

Phạm Phú Khải: Trong cuộc đời binh nghiệp của ông, điều gì làm cho ông không thể nào quên cho đến bây giờ?

Trần Thanh: Tôi từng chiến đấu nhiều mặt trận khác nhau. Nhưng nhớ nhất là mặt trận ở Phước Long. Vào khoảng tầm 4 giờ chiều, nơi đây bị hai trái bom bắn xuống cầu Đắk Lung, chết mấy ngàn người, già trẻ lớn bé. Toàn là dân thôi. Có những gia đình mà có ba bốn đứa nhỏ nheo nhóc, còn bố mẹ gia đình nằm chết dài dài. Thấy xác chết banh thây, không còn gì lành lặn hết. Vào cỡ 9 giờ sáng hôm sau, tôi nhìn thấy một bé gái, chừng 9, 10 tuổi, mặt tái mét, mặc áo nâu ngắn tay, quần đen, ngồi co ro ôm đứa em cỡ một tuổi. Nhìn thấy nó, tôi nghĩ đến con tôi. Tôi đoán con bé đã bế em nó suốt buổi chiều, và qua một đêm. Mà nhiệt độ vào lúc đó chỉ khoảng không độ, rất lạnh. Tôi hỏi bố mẹ con đâu, thì bé chỉ vào các xác chết nằm đó. Gia đình tám xác chết, bố mẹ nằm phơi thây. Con bé ngồi bế đứa em bị sứt mũi, máu me còn dính khô đầy trên mặt. Tôi bảo để chú ôm em cho con một chút thì đứa em dường như nghe thấy, nó vội ôm chặt lấy chị không chịu. Tôi bồi hồi xúc động khi con bé van xin: “Chú ơi chú, chú nuôi con với chú.” Tôi không biết nói sao, cứ ừ lúc đó. Con bé nói tiếp: “Chú nuôi em con nữa chú nhé”. Với tôi, thì cảnh lính chết khi lâm trận là bình thường. Nhưng cả gia đình chết, chỉ còn hai bé nhỏ, vô tội, lại nói với mình những lời như vậy, thì nó ăn sâu vào trong tâm trí, ám ảnh mình, không thể nào quên được.

Các mặt trận như suối Tàu Ô tại quốc lộ 13 (còn gọi là quốc lộ máu), xác Nhảy dù, Biệt Động quân, Thuỷ quân Lục chiến, v.v… nổi lềnh bềnh. Chuyện đó mình thấy thường trong cuộc đời binh nghiệp. Nhưng khi thấy dân làng và trẻ con như thế, sự kiện này cứ mãi ám ảnh tôi từ suốt 50 năm qua.

Phạm Phú Khải: Tinh thần đồng đội trong đời binh nghiệp của ông thì sao?

Trần Thanh: Toán Biệt kích tôi có bảy người, tôi là trưởng toán. Chúng tôi uống máu ăn thề với nhau.

Có những đêm khi xác của đồng đội mình chưa lấy về được, vì bên địch đang cách mình không bao xa, rất nguy hiểm để lấy xác về, thì tôi không làm sao yên giấc được.

Tôi còn nhớ tại Suối Tàu Ô, một người em trong đội tên Phát, to con như Mỹ, cao hơn 1.8m. Đang đi thì bị bắn, nó chết đột ngột quá, chết đứng luôn. Xong rồi Phát gục xuống. Nên đêm đến, tôi quyết định bò lên lấy xác.

Lợi dụng đêm tối trời mưa và giông bão, tôi vắt dây ba lô, dây giầy và dây võng, đủ dài, lấy nhiều sợi. Tôi bò lên một mình. Tay Phát lúc đó cứng quá, nó như gồng lên vậy. Tôi nói với Phát: “Em à, em gồng lên như thế thì anh không thể cột tay em được.” Nói xong thì tay Phát tự nhiên mềm ra. Người Phát cũng như nhẹ hẳn ra. Vì vậy, mặc dầu tôi là người Công giáo, tôi tin con người sống khôn chết thiêng.

Tôi cột xong thì tôi bò thụt lui để kéo xác Phát về. Tôi lấy được xác Phát về đêm đó.

Phạm Phú Khải: Tại sao ông lại làm điều đó, có ai ra lệnh chỉ huy không? Lúc đang làm thì ông nghĩ gì?

Trần Thanh: Tôi không nghĩ gì hết. Không ai bắt tôi làm cả. Lúc đó tôi chỉ nghĩ đến tinh thần anh em đồng đội và nhớ đến lời thề buổi ban đầu đồng sanh cộng tử. Chỉ nghĩ thấy anh em đồng đội mình bị vậy thì mình phải làm, vậy thôi. Phải lấy xác về.

Phạm Phú Khải: Trong cuộc đời binh nghiệp, ông có sợ không? Có sợ chết không?

Trần Thanh: Lúc bắt đầu nhập ngũ, thấy xác chết thì tôi cũng rất sợ. Nhưng sau một thời gian, vì nhiệm vụ của mình, vì không còn sự chọn lựa nào, nên cũng phải hết sợ thôi. Lâu ngày từ nhát thành gan dạ, từ sợ hãi lúc ban đầu khi thấy đạn bắn trên đầu mình 5, 7 mét, sợ hú vía, thì sau này, thay vì sợ, tôi tập lắng nghe tầm đạn nó bay cỡ nào để phỏng đoán, phòng ngừa. Học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm từ các mật khu như Dương Minh Châu, mật khu Hố Bò, Bời Lời, là những địa thế mà đất nó khô, có thể gài mìn, lựu đạn nhiều. Còn miền Tây đất ướt, không gài mìn được. Tuy nhiên, cộng sản nó cũng ghê lắm. Nó chờ cho mình qua bưng rồi nó phục kích, ở những chỗ hiểm nghèo. (Còn tiếp)

(Chuyện ngày xưa – Chuyện ngày nay)

RELATED ARTICLES
- Advertisment -
Google search engine

Most Popular

Recent Comments