Tùng Phong
Những nghi phạm bị bắt sau vụ bạo động ngày 11 Tháng Sáu 2023 (ảnh: báo CAND)
Cuộc vây bắt bố ráp nhóm người Thượng tham gia vào vụ bạo loạn đẫm máu ở hai đồn công an ở xã Ea Ktur và Ea Tu vào rạng sáng ngày 11 tháng Sáu đang có nguy cơ biến thành một cuộc xung đột sắc tộc và trả thù theo đúng nghĩa đen.
Toàn bộ năm tỉnh thành Tây Nguyên đặt trong trạng thái chiến tranh. Lực lượng công an, mật vụ, cảnh sát cơ động chống khủng bố, quân đội hùng hậu được triển khai. Bất kể ai, với kiểu hình và ngữ âm “dân tộc”, mặc quần áo rằn ri đều trở thành đối tượng bị truy bắt và xét hỏi. Một clip trên MXH cho thấy đám đông đầy phẫn nộ cùng lực lượng công an đang trói gô hai người đàn ông dân tộc mặc chiếc quần rằn ri khi họ trên đường đi làm rẫy như những kẻ tội phạm, mặc cho hai thanh niên ú ớ thanh minh bằng thứ tiếng Việt không rõ ràng. Theo thông báo của Bộ Công an, hiện đã có 45 đối tượng tình nghi bị bắt giữ và cuộc bố ráp vẫn tiếp tục với qui mô mở rộng chưa từng có.
Điều đáng lo ngại là bầu không khí đầy kích động thù hận đang lây lan, khuyến khích các hành động bạo lực tập thể. Sáu viên công an và hai viên chức hai xã bị tử thương đều là người Nghệ An, Thanh Hóa và đây cũng là sắc dân nhập cư đa số, đông đảo nhất ở năm tỉnh Tây Nguyên sau 1975. Với đặc tính cấu kết vùng miền mạnh mẽ, họ thậm chí tổ chức các đội nhóm đi lùng bắt người dân tộc thiểu số như thời Trung cổ và sẵn sàng sử dụng bạo lực mà không có sự ngăn cản của phía chính quyền.
Cuộc bố ráp đang biến thành một cuộc trả thù sắc tộc không kiểm soát có thể tạo ra xung đột sâu sắc thêm, hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Điều đó cần phải chấm dứt ngay. Cuộc khủng hoảng này cần nhanh chóng khép lại bằng tiến trình luật pháp. Điều quan trọng hơn là Hà Nội nhìn nhận ra ngọn nguồn của mâu thuẫn dẫn đến tội ác và bạo loạn như đã xảy ra trong nhiều thập niên qua và vẫn nhức nhối tới hôm nay dù nhà cầm quyền đã tiêu tốn một nguồn lực khổng lồ. Vấn đề cần được giải quyết ở gốc rễ chứ không phải bằng bạo lực và đàn áp sắt máu.
Bỏ qua nguyên nhân trực tiếp gây cuộc bạo loạn có tổ chức này có thể có những tác nhân “nước ngoài” tác động. Tôi sẽ chỉ tập trung vào phân tích các nguyên nhân gây ra những mâu thuẫn và phẫn uất xã hội đã tồn tại quá lâu ở Tây Nguyên nói riêng.
Đó là các mâu thuẫn về văn hóa, bất công trong chính sách quản lý đất đai, phân biệt đối xử và cướp bóc một cách có hệ thống của chính quyền địa phương đối với những sắc dân thiểu số Tây Nguyên. Ngoài ra, còn có các yếu tố lịch sử và chủng tộc cần phải được xem xét một cách khách quan và toàn diện. Chính các vấn đề này mới là căn nguyên của tội ác và bạo loạn, bất ổn xã hội. Những sai lầm cần được triệt để khắc phục dù phải hy sinh các lợi ích phe nhóm đang chiếm ưu thế quyền lực vượt trội ở hệ thống cầm quyền Việt Nam.
Công an bố ráp và bắt bớ nhiều người được cho là can tội thực hiện vụ bạo loạn ngày 11 Tháng Sáu 2023 (ảnh: báo CAND)
Trụ sở Công an xã Ea Tiêu và Ea Ktur, hai địa điểm chứng kiến cuộc bạo động ngày 11 Tháng Sáu 2023 (đồ họa của VNE)
Tây Nguyên trước 1975
Ngược lại tiến trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam thì đến khi chúa Nguyễn Hoàng nhập Phú Yên năm 1611 tới thời Gia Long thống nhất non sông một dải từ mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan năm 1802, thì Tây Nguyên vẫn chưa nằm trong cương thổ Việt Nam. Vùng cao nguyên và núi non mênh mông này là nơi sinh sống của các sắc dân Kor, Ktu, Ba Na, Xơ Đăng, Hre, Jrai… và họ không khuất phục trước sự cai trị hà khắc của nhà Nguyễn.
Những cuộc nổi dậy mạnh mẽ chống lại Nguyễn triều được biết tới với tên gọi “loạn mọi Đá Vách”. Đá Vách là tên gọi khác của núi Thạch Bích, phía Tây của tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Cuộc nổi dậy của họ kéo dài suốt nửa thế kỷ và Nguyễn triều đã phải nhọc công bình định với hao tổn to lớn.
Vào thời Pháp thuộc, hệ thống quyền lực hành chính và những hạ tầng xã hội văn minh được người Pháp bắt đầu đặt nền móng từ những năm 1891. Với việc phát hiện ra cao nguyên Lang Biang bởi nhà khoa học lừng danh Yersin và theo đề nghị của ông, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho xây dựng thành phố Đà Lạt, chính thức trực tiếp can thiệp vào vùng đất Tây Nguyên kể từ 1900. Đến Tháng Năm 1949, người Pháp trao quyền quản lý Cao Nguyên Trung Phần với xứ Thượng Nam Đông Dương cho chính phủ Quốc gia Việt Nam.
Quốc trưởng Bảo Đại tách riêng Cao Nguyên Trung bộ ra và lập qui chế hành chính đặc biệt có tên Hoàng Triều Cương Thổ vào Tháng Tư 1950. Vùng này gồm năm tỉnh là Đồng Nai Thượng, Lâm Viên, Pleiku, Daklak, Kontum. Đến 1955, chính quyền VNCH dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm mới giải thể qui chế này và sát nhập “Hoàng Triều Cương Thổ” vào lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, Tây Nguyên hay Cao nguyên Trung phần là phần đất cuối cùng được sát nhập vào cương thổ Việt Nam trong lịch sử hiện đại.
Trong suốt quá trình người Pháp can thiệp vào Tây Nguyên, việc nhập cư được kiểm soát khá chặt chẽ. Người Pháp duy trì chế độ tự trị của vùng đất này và hạn chế người Kinh nhập cư, ngoại trừ những công ty trồng café, cao su được quyền tuyển người và đưa người Kinh vào làm việc với số lượng giới hạn. Việc thành lập các đồn điền và di thực các loại cây công nghiệp chiến lược là café, cao su… về trồng tại cao nguyên Lang Biang đã sớm có những kết quả kinh tế to lớn, cùng với những hạ tầng kỹ thuật, đô thị được xây dựng một cách khoa học đã thay đổi đời sống của người dân địa phương. Đà Lạt trở thành thủ đô của Cao Nguyên Trung Phần.
Người Pháp rất tôn trọng văn hóa và tập tục bản địa của người Thượng – tên gọi chung cho các dân tộc Tây Nguyên. Dưới thời Quốc gia Việt Nam, “Qui chế 16” của Quốc trưởng Bảo Đại thừa nhận các quyền sở hữu đất đai của người Thượng, cũng như tôn trọng tập tục bộ lạc và chức sắc kế truyền…
Nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, chủng tộc, tài nguyên, thổ nhưỡng, khí hậu của người Pháp về Tây Nguyên cách đây hơn 100 năm phải khiến cho giới trí thức Việt sau hơn một thế kỷ mới được tiếp cận phải sửng sốt, thán phục. Một ví dụ tiêu biểu là bản trường ca Đam Săn của dân tộc Ede (Rhade) đã được chuyển ngữ từ tiếng Rhade sang tiếng Pháp bởi Léopold Sabatier từ 1929. Rất lâu sau đó, những nhà “văn hóa Việt Nam” mới được biết tới kiệt tác này qua bản dịch của ông.
Cuộc di cư lớn đầu tiên của người Kinh vào Tây Nguyên dưới thời VNCH được ghi nhận vào giai đoạn 1954 khi gần một triệu người Bắc di cư vào Nam. Trong số đó, 54,551 người đã được sắp xếp định cư ở Đà Lạt và Lâm Đồng. Cho đến 1975, toàn bộ dân số khu vực Tây Nguyên ước chừng khoảng 1.2 triệu dân với đa phần là dân bản địa chiếm khoảng 70%. Chính sách của VNCH sau khi sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào Trung phần, gọi là Cao nguyên trung phần (hay Tây Nguyên) chú trọng xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội, gia tăng quyền lực hành chính.
Song đối với các dân tộc bản địa, chính quyền VNCH hết sức tôn trọng văn hóa, tập tục, hỗ trợ kinh tế, hướng dẫn nghề nghiệp, kỹ thuật lâm nghiệp để họ có đời sống tốt hơn. Mối quan hệ giữa chính quyền, người Kinh nhập cư và các dân tộc bản địa được ghi nhận là tốt đẹp và hòa hảo. Mặc dù vậy, việc sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ và loại bỏ cơ chế tự trị của vùng đất này của Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đã tạo cớ để cho những mâu thuẫn với người Thượng phát sinh. Điều này đã đem tới cơ hội để những người cộng sản khai thác và lợi dụng triệt để.
Tây Nguyên sau 1975
Sau 1975, nhà cầm quyền Việt Nam thực hiện chính sách di dân cưỡng bức một lượng lớn dân cư thành phố là những gia đình sỹ quan, viên chức làm việc trong chính quyền cũ tập trung vào các “vùng kinh tế mới” mà thực chất là những nơi rừng thiêng nước độc, không có hạ tầng để khai hoang và dọn dẹp bom mìn sau chiến tranh. Một lượng lớn dân nghèo nông thôn từ miền Bắc với đa số sắc dân ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ, Hà Tây… cũng được khuyến khích vào làm việc trong các lâm trường quốc doanh theo chương trình phát triển kinh tế mới, nhằm giảm sức ép dân số ở miền Bắc và tăng nguồn lao động cho Tây Nguyên.
Theo thống kê, Tây Nguyên là vùng có tốc độ tăng dân số cao nhất cả nước. Việc tăng dân số chủ yếu là tăng dân số cơ học bởi nhập cư trong đó có hai nguồn là nhập cư theo kế hoạch và nhập cư tự do. Chỉ riêng tỉnh Đắk Lắk, từ 1976 đến 2005, đã có 56,490 hộ nhập cư theo diện tự do với 289,688 nhân khẩu.
Dân số Tây Nguyên tính đến 2012 đã đạt khoảng 5.379 triệu dân, gấp 4.5 lần so với 1976. Tỷ lệ nhập cư tự do của toàn vùng trong bốn thập niên sau chiến tranh giao động 54% – 60% mức tăng dân số và xu hướng này ngày một cao hơn.
Việc nhập cư ồ ạt thiếu kiểm soát, thiếu chính sách phát triển kinh tế xã hội một cách khoa học, căn cơ đã gây ra vô vàn các hệ lụy. Chỉ trong hơn bốn thập niên, hơn 80% rừng nguyên sinh ở Tây Nguyên trên thực tế đã biến mất và bị chuyển đổi thành rừng trồng cây công nghiệp, cây lấy gỗ làm nguyên liệu, sắn và các loại lương thực ngắn ngày. Rừng nguyên sinh về cơ bản đã không còn. Cùng với việc phát triển thủy điện ồ ạt, đô thị hóa nhanh cũng góp phần tàn phá môi trường gây ra tình trạng suy thoái tài nguyên đất trên diện rộng và nguồn nước ngầm sụt giảm về lâu dài sẽ gây ra thảm họa sinh thái trong tương lai không xa. (Còn tiếp)
(Quan điểm- Pháp luật- Vấn dề hôm nay)