Nạn đói năm 1945 đang dần chìm vào quên lãng, mặc dù nó có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập của đất nước.
Hầu như không thể tin được rằng những cảnh tượng khủng khiếp của nạn đói năm 1945, như được mô tả trong đoạn trích dịch này từ “Chuyện cũ Hà Nội” của nhà văn nổi tiếng Tô Hoài (1920-2014), chỉ xảy ra cách đây vài thập kỷ tại thủ đô nhộn nhịp của Việt Nam.
Nạn đói lớn năm 1945, còn được gọi là Nạn đói Ất Dậu trong tiếng Việt, diễn ra ở Bắc Kỳ và An Nam dưới sự chiếm đóng của Pháp và Nhật Bản. Theo thống kê của chính phủ, nạn đói đã khiến 2 triệu người chết ở miền Bắc Việt Nam, trong khi các tài liệu quốc tế ước tính số người chết vào khoảng 1 triệu người, tương đương khoảng 8% dân số. Thảm kịch đã hình thành một phần quan trọng của lịch sử Việt Nam hiện đại. Khai khẩn thêm đất đai và giải quyết tình trạng thiếu lương thực là những yếu tố chính trong hoạt động tuyên truyền của Việt Minh, và ngăn chặn nạn đói khác là trọng tâm đối với tính hợp pháp của chế độ cộng sản.
Các nhà lãnh đạo nhà nước Việt Nam từ lâu đã coi thành công xuất khẩu gạo của đất nước là dấu hiệu của sự lãnh đạo sáng suốt, nêu bật vị thế của Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới và là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất. Tuy nhiên, Nạn đói lớn phần lớn bị bỏ qua. Mỗi năm, Ngày Độc lập được tổ chức vào ngày 2 tháng 9, nhưng chỉ liên quan thoáng qua đến nạn đói xảy ra trước tuyên bố độc lập năm 1945.
Trong khi chính phủ không tích cực đàn áp thảo luận về nạn đói, lời kêu gọi chính thức tưởng niệm nạn đói 1944-1945 vẫn chưa nhận được phản hồi. Những lời kêu gọi như vậy của các nhà sử học Việt Nam đã được các cơ quan truyền thông ngoài nhà nước đưa tin và đưa tin trong các bản tin của BBC, nhưng truyền thông trong nước Việt Nam đã không chú ý đến họ.
Vào tháng 9 năm 1940, quân đội Nhật Bản tiến vào khu vực ngày nay được gọi là miền bắc và miền trung Việt Nam, theo một thỏa thuận với các nhà quản lý thuộc địa Pháp. Họ ở đó cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai, dẫn đến việc người dân Việt Nam bị hai thuộc địa.
Mặc dù có nhiều yếu tố góp phần gây ra nạn đói năm 1945, nhưng sự chiếm đóng của Nhật Bản đóng một vai trò quan trọng. Nhật chỉ đạo phá ruộng trồng đay, tích trữ lúa gạo để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Các nhà sử học đồng ý rộng rãi rằng những nỗ lực của quân đội Nhật Bản, cùng với các chính sách kinh tế của họ đối với Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á, đặc biệt là trưng thu gạo, là những nhân tố chính dẫn đến nạn đói ở Việt Nam.
Chuỗi sự kiện này được phản ánh trong Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, được ban hành chỉ vài tháng sau nạn đói:
Theo một nhà sử học ở Hà Nội, đã có những sáng kiến cơ sở quy mô nhỏ để tưởng niệm các nạn nhân của nạn đói ở các vùng khác nhau của miền Bắc Việt Nam. Ví dụ, đài tưởng niệm Hợp Thiện được hoàn thành vào năm 1951 thông qua các quỹ từ thiện do cư dân Hà Nội quyên góp. Tuy nhiên, chính phủ dường như không quan tâm đến một dự án quốc gia, mặc dù từ giữa những năm 1990, đã có sự gia tăng đáng kể cả về số lượng và tính đa dạng của các sáng kiến liên quan đến ký ức ở Việt Nam.
Nhà sử học cho biết: “Các dự án tưởng niệm chính thức cần được chính phủ phê duyệt.
Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam, và Giáo sư Furuta Motoo từ Đại học Tokyo bắt đầu thực hiện một dự án vào những năm 1990 nhằm phá vỡ sự im lặng về thảm kịch đã được viết sẵn. Theo Giáo sư Hồ Tài Huệ Tâm từ Đại học Harvard, công việc chung của họ, thu thập lịch sử truyền miệng của hàng trăm người sống sót sau nạn đói, đã vấp phải sự phản đối của chính phủ.
“Những người đã trải qua [nạn đói] hầu hết đã chết,” giáo sư nhận xét qua email. “Hiện tại, cả chính phủ và người dân đều quan tâm nhiều hơn đến sự thịnh vượng sau chiến tranh, hậu Đổi Mới, mà trong thời kỳ hậu COVID, dường như đang bị tuột dốc.”
Mối quan hệ Nhật-Việt ngày càng phát triển, năm nay kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập, góp phần làm cho nạn đói trở nên mờ mịt. Nhật Bản hiện là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức lớn nhất của đất nước và là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ ba. Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản được ký kết vào tháng 12 năm 2008 và có hiệu lực vào tháng 10 năm 2009. Năm 2011, Nhật Bản trở thành nước G-7 đầu tiên chính thức công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Năm 2014, Nhật Bản trở thành nước G-7 đầu tiên thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. Năm 2023, một cuốn sách của cựu Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Umeda Kunio được xuất bản bằng tiếng Việt, có tựa đề “Nhật Bản và Việt Nam là đồng minh tự nhiên.”
Theo Giáo sư Ken MacLean từ Đại học Clark ở Worcester, Massachusetts, người nghiên cứu về các vi phạm nhân quyền và cách những trải nghiệm đó được ghi lại, chính phủ Việt Nam không có khuynh hướng đưa ra một vấn đề ngoại giao có khả năng gây tranh cãi.
“Vào những năm 2000, chính phủ quan tâm nhiều hơn đến đầu tư của Nhật Bản,” MacLean viết trong một email. “Vấn đề nghĩa vụ của Nhật Bản chưa bao giờ trở thành một yêu cầu cấp bách của công chúng ở Việt Nam liên quan đến thảm kịch hình sự đã xảy ra.”
Không giống như phương Tây, nhìn chung Nhật Bản tránh chỉ trích các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Chính phủ Nhật Bản miễn cưỡng đáp ứng lời kêu gọi của các nhóm vận động kêu gọi Nhật Bản gây áp lực lên Việt Nam về tình hình nhân quyền. Sự miễn cưỡng này xuất phát từ sự e ngại của Nhật Bản rằng bất kỳ sự chỉ trích nào đối với hồ sơ nhân quyền của Việt Nam đều có thể dẫn đến việc Việt Nam liên kết chặt chẽ hơn với Trung Quốc.
Nạn đói đã giúp Việt Minh
Sử gia Ngô Vĩnh Long, trong cuốn sách “Trước Cách mạng: Nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc,” đã khẳng định rằng trước khi người Pháp đến, hệ thống ruộng đất ở Việt Nam khá đáp ứng nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, trong thời kỳ thuộc địa, đất đai chủ yếu được cấp cho công dân Pháp, giới thượng lưu Việt Nam và thương nhân Trung Quốc. Tỷ lệ tử vong thấp hơn được ghi nhận ở những người có quyền sử dụng đất tư nhân; những người không có đất canh tác có nhiều khả năng chết hơn.
Nạn đói phổ biến dưới thời Pháp thuộc, mặc dù không đến mức như nạn đói năm 1945. Mặc dù thủ đô không xảy ra nạn đói nhưng tình trạng thiếu lương thực không phải là hiếm. Theo nghĩa đó, nạn đói xảy ra trên 32 tỉnh từ năm 1944-1945 không bắt đầu mà chỉ tăng lên dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản.
Theo giải thích của nhà sử học Nguyễn Thế Anh , mặt trận Việt Minh được thành lập vào năm 1941 đã sử dụng nạn đói để vận động nông dân mù chữ và nghèo khổ. Câu hỏi sống còn khiến quần chúng theo liên minh giành độc lập. Ngoài ra, nạn đói còn góp phần tạo nên tình trạng hỗn loạn chính trị tạo điều kiện cho cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 diễn ra và Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) lên tiếng đòi quyền lực.
Tại nhiều cơ quan truyền thông trong nước, chính phủ đã làm mất uy tín những lập luận của các nhà sử học rằng việc chính quyền cộng sản lên nắm quyền vào năm 1945 là một sự may rủi. Theo nghĩa đó, việc cho phép các cuộc tranh luận công khai về hoặc tưởng niệm rộng rãi nạn đói có thể dẫn đến việc xem xét lại các sự kiện lịch sử khác.
Có hai chính phủ độc lập, cả hai đều góp phần chấm dứt thực dân Pháp: Việt Minh do Mỹ hậu thuẫn và Đế quốc Việt Nam do Nhật hậu thuẫn, được thành lập tại Huế vào tháng 4 năm 1945 và do Trần Trọng Kim, một học giả được kính trọng, lãnh đạo. Bất kỳ nỗ lực nào để khen ngợi họ Trần đều bị coi là bóp méo sự thật lịch sử , một tội ác có thể bị trừng phạt ở Việt Nam.
ĐCSVN không thừa nhận các phong trào dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản là các nhóm hợp pháp có khả năng nắm quyền, khẳng định rằng họ là nhóm hợp lệ duy nhất để làm như vậy.
Chính phủ kéo dài bốn tháng dưới thời Trần, bao gồm các kỹ thuật viên hơn là các chính trị gia, đặt ra mối đe dọa đáng kể đối với tính hợp pháp của quyền lực của ĐCSVN ngày nay – và di sản của nó gắn liền với nạn đói năm 1945. Như nhà sử học Nguyễn Thế Anh đã nhận xét, chính quyền nhà Trần và người Việt Nam nói chung đóng vai trò tích cực hơn trong việc quản lý cuộc khủng hoảng so với người Pháp và người Nhật. Đến tháng 6 năm 1945, nạn đói gần kết thúc.
Các chương trình cứu trợ nạn đói của Trần không chỉ giúp giảm bớt sự khốn khổ của người dân mà còn tạo cơ hội cho quần chúng, đặc biệt là giới trẻ tham gia vào các hoạt động xã hội. Chính phủ tồn tại ngắn ngủi của ông cũng góp phần vào nền độc lập dân tộc, nâng cao vị thế của tiếng Việt, Việt Nam hóa chính quyền thực dân Pháp, đổi quốc hiệu thành Việt Nam và bảo đảm thống nhất lãnh thổ trước khi Nhật Bản đầu hàng.
Tuy nhiên, nền tảng ưu tú của Trần chỉ cho phép ông bắt đầu một cuộc cách mạng từ trên xuống mà ít liên hệ với tầng lớp nông dân, những người chiếm đa số dân chúng. Trên thực tế, trong lịch sử do đảng hỗ trợ, Trần chỉ có thể được coi là một học giả hoặc nhà giáo dục, hoặc cùng lắm là một nhà lãnh đạo của chính phủ bù nhìn thân Nhật. Kết quả là ký ức về chính phủ bị đánh giá thấp của ông đã chìm vào quên lãng.
Bồi thường thiệt hại của Nhật Bản vướng vào Nội chiến Việt Nam
Trong những năm kể từ đó, Nhật Bản đã bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, nhưng không phải cho ĐCSVN. Theo cuốn sách “Quan hệ Nhật Bản với Việt Nam, 1951-1987” của Masaya Shiraishi , Nhật Bản đã loại bỏ các quốc gia cộng sản khỏi danh sách những nước được hưởng bồi thường chiến tranh, mặc dù họ không cắt đứt mọi liên hệ với chính phủ Bắc Việt Nam.
Chính phủ Nhật Bản chỉ thiết lập quan hệ chính thức với chính phủ miền Nam , trong khi làm ngơ trước những đau khổ của người dân miền Bắc dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản. ĐCSVN luôn phủ nhận rằng Việt Nam Cộng hòa (VNCH) tồn tại trong thời gian ngắn là một chính phủ được quốc tế công nhận. Hồi đó, chỉ có một số quốc gia công nhận chính quyền cộng sản ở miền Bắc Việt Nam, một sự thật mà chính phủ không muốn giới trẻ biết, mặc dù họ đã cẩn thận liệt kê tất cả các quốc gia phản đối chiến tranh Việt Nam.
Việt Nam Cộng hòa nhằm mục đích được công nhận là người nhận hợp pháp duy nhất các khoản bồi thường chiến tranh từ Nhật Bản. Năm 1955, Ngô Đình Diệm đưa ra vấn đề bồi thường với Nhật Bản với tư cách là đối tác ngoại giao. Bất đồng về số lượng là một trở ngại cho quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và VNCH. Năm 1959, VNCH trở thành nước duy nhất nhận bồi thường chiến tranh của Nhật Bản tại Việt Nam.
Nhật Bản đã bồi thường dưới hình thức viện trợ phát triển – đây là nguồn đóng góp lớn thứ ba cho nền kinh tế Nam Việt Nam dưới thời Diệm – mặc dù số tiền vẫn còn nhiều nghi vấn. Thỏa thuận bồi thường thiệt hại năm 1959 cam kết tổng cộng 55 triệu đô la , phần lớn trong số đó được sử dụng để tài trợ cho dự án thủy điện Đa Nhim. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai quốc gia trở nên căng thẳng khi sự ủng hộ của cánh tả dành cho chế độ cộng sản ở Hà Nội gia tăng ở Nhật Bản.
Chỉ có đau khổ nghiệt ngã, không có hy sinh vẻ vang
Nhà sử học Benoit de Tréglodé, trong cuốn sách “Anh hùng và cách mạng ở Việt Nam”, nhận thấy rằng ĐCSVN chỉ ưu tiên tưởng niệm những người đấu tranh chống thực dân và đế quốc sau năm 1925, tạo ra “một tầng lớp yêu nước”. ĐCSVN có quyết định cuối cùng về những người được coi là liệt sĩ, liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Hàng triệu người đã chết trong Nạn đói lớn không phù hợp với câu chuyện vĩ đại về công cuộc cứu nước của ĐCSVN. Trong thứ bậc của những cái chết anh hùng được Treglode phân tích – bao gồm chết trong chiến đấu, chết trong khi tham gia hoạt động thời chiến hoặc được tuyên bố là mất tích trong chiến đấu – những người thiệt mạng vì nạn đói không được tính đến hoặc công nhận, mặc dù họ đã thiệt mạng và phẩm giá.
Ngay cả việc cảm nhận được sự tàn phá cũng khó khăn. Số lượng nạn nhân nữ ít được ghi lại hoặc nhấn mạnh hơn, vì nhân khẩu học nam giới được thực dân coi là quan trọng hơn. Điều này là do các chính sách thuộc địa chỉ bắt buộc đàn ông phải trả “thuế đầu” hoặc “thuế thân”, dẫn đến số lượng của họ được theo dõi cẩn thận hơn. Ngoài ra, không ai thống kê được số người không chết mà bị suy nhược vĩnh viễn do suy dinh dưỡng.
Việc chính phủ do ĐCSVN lãnh đạo can thiệp vào các số liệu thống kê lịch sử, bao gồm cả những số liệu liên quan đến nạn đói là một bí mật công khai. ĐCSVN trong lịch sử đã dựa vào số liệu thống kê như một yếu tố quan trọng trong nỗ lực độc quyền hóa tất cả các hình thức đại diện dưới quyền của mình. ĐCSVN, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao duy trì các hệ thống lưu trữ riêng của họ , hạn chế quyền truy cập của các quan chức được giám sát chặt chẽ. Đáng tiếc là các học giả, học giả và sinh viên Việt Nam không được vào các kho lưu trữ đã đóng này.
Chỉ thống kê số người chết không thể thừa nhận vô số nạn nhân đã bị ảnh hưởng, trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi Nạn đói lớn đã giảm bớt và bị hạ thấp. Thậm chí ngày nay, con cháu của những người bị ảnh hưởng có thể tiếp tục âm thầm gánh chịu hậu quả.
Ăn thịt đồng loại và buôn bán trẻ em là một trong số vô số tội ác do Nạn đói lớn gây ra. Những câu chuyện này nên được kể lại. Lịch sử không chỉ bao gồm câu chuyện tổng thể mà còn bao gồm những câu chuyện riêng lẻ của những người hàng ngày, đặc biệt là những nhóm dân số dễ bị tổn thương vẫn còn được ghi nhớ. Microhistories xứng đáng có một vị trí tốt hơn.
Vì người Việt Nam có truyền thống tôn vinh tổ tiên, tưởng niệm các nạn nhân của Nạn đói lớn không chỉ để tỏ lòng thành kính với những người đã khuất mà còn để tỏ lòng thành kính với những người đang sống. Những nạn nhân này đã không chết trong yên bình. Con cháu họ cũng không được sống yên ổn.
Lý Đại Việt