Những gì Hà Nội cần từ mối quan hệ của nó với Washington phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.
Sau khi Việt Nam từ chối đề nghị của Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ song phương lên đối tác chiến lược trong chuyến thăm Hà Nội của Phó Tổng thống Kamala Harris vào tháng 8/2021, Hoa Kỳ đã thử lại trong chuyến thăm gần đây của Ngoại trưởng Antony Blinken, và cuộc điện đàm gần đây giữa Tổng thống Joe Biden và Tổng thống Joe Biden . Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Trong một thông cáo báo chí, Blinken xác nhận rằng Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ tiến hành nâng cấp “trong những tuần và tháng tới”. Trọng ít nói rõ hơn về chủ đề nâng cấp trong tuyên bố của mình, nhưng ông nhận xét rằng những phát triển tích cực có thể đưa quan hệ Việt-Mỹ lên “tầm cao mới”.
Tuy nhiên, câu hỏi một lần nữa được đặt lên hàng đầu trong cuộc thảo luận về việc nâng cấp. Cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều lặp lại lập luận rằng tên gọi của mối quan hệ không quá quan trọng bởi vì quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam đang phát triển theo hướng tích cực và quan hệ đối tác đã là “chiến lược” trên mọi phương diện, trừ tên gọi. Nếu cái mác không quan trọng thì tại sao Việt Nam lại phải từ chối đề nghị của Mỹ nâng cấp quan hệ để tránh chọc giận Trung Quốc? Việt Nam thực sự muốn gì từ Mỹ về lâu dài? Quan hệ đối tác có thể trở thành một liên minh không? Chỉ có đi sâu nghiên cứu tư duy chiến lược của Việt Nam mới có thể trả lời được những câu hỏi này.
Tư duy chiến lược của Việt Nam về cơ bản dựa trên mối quan hệ với và chỉ với Trung Quốc. Việt Nam thường áp dụng hai chiến lược riêng biệt để đối phó với hai khả năng của tình trạng quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Do Việt Nam thiếu cơ quan đối phó với Trung Quốc, lựa chọn áp dụng một trong hai chiến lược của Việt Nam phụ thuộc vào hành vi của Trung Quốc đối với Việt Nam và do đó về cơ bản là phản ứng. Khi quan hệ Trung Quốc-Việt Nam tốt đẹp hoặc ổn định, Việt Nam thích đi theo chiềuvới Trung Quốc. Điều này là do lợi ích của Việt Nam là tránh phải tiến hành một cuộc chiến tranh tốn kém và không cần thiết với nước láng giềng phương bắc lớn hơn nhiều. Do đó, Việt Nam sẽ không chấp nhận những cú huých của các cường quốc ngoài khu vực nhằm nâng cấp hợp tác an ninh nhằm duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Bắc Kinh. Khi quan hệ Trung Quốc-Việt Nam xấu đi, Việt Nam đã cố gắng cân bằng với Trung Quốc. Việt Nam hiểu rằng nếu sự hòa hoãn của họ không thể thay đổi hành vi của Trung Quốc, thì việc cân bằng có thể cho phép Hà Nội phòng thủ tốt hơn và ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc. Trong hoàn cảnh này, Việt Nam đã sẵn sàng liên minh với một cường quốc khác, ngay cả khi điều đó vi phạm quyền tự chủ chiến lược của Hà Nội.
Trường hợp Việt Nam liên minh với Liên Xô vi phạm chính sách trước đó về khoảng cách bình đẳng giữa Bắc Kinh và Mátxcơva từ năm 1975 đến năm 1978 sẽ cho chúng ta biết cách Việt Nam sẽ đối xử với mối quan hệ của mình với Hoa Kỳ trong tương lai. Liên Xô khi đó và Hoa Kỳ bây giờ giống nhau ở một số khía cạnh. Cả hai cường quốc đều tìm cách kiềm chế Trung Quốc bằng cách lôi kéo các nước xung quanh khu vực ngoại vi của Trung Quốc. Cả hai cũng là những cường quốc ngoài khu vực có khả năng cung cấp an ninh cho Việt Nam, mà một mình Việt Nam không thể tự bảo vệ mình trước Trung Quốc. Cuối cùng, cả hai cường quốc phải đối phó với một Việt Nam áp dụng chính sách đối ngoại độc lập và quan tâm đến việc đẩy Việt Nam về phe của họ với cái giá phải trả của Trung Quốc.
Nếu mối quan hệ của Việt Nam và liên minh sau này với Liên Xô đưa ra bất kỳ hướng dẫn nào, thì đó là Hà Nội sẽ có những nhu cầu và kỳ vọng khác nhau về mối quan hệ Việt-Mỹ tùy thuộc vào tình trạng của quan hệ Trung Quốc-Việt Nam và một chính sách cụ thể của Hoa Kỳ dường như đang gây tổn hại. lợi ích của Việt Nam trong thời kỳ này có thể có lợi trong thời kỳ khác.
Một mặt, khi quan hệ Trung Quốc-Việt Nam tốt đẹp hoặc ổn định, Việt Nam cần Mỹ tôn trọng quyền tự chủ chiến lược của mình. Các đề xuất của Hoa Kỳ nhằm nâng cấp quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam mà không quan tâm đến tình trạng của quan hệ Trung Quốc-Việt Nam sẽ làm tổn hại đến an ninh của Việt Nam vì những đề xuất đó có khả năng khơi dậy sự nghi ngờ của Trung Quốc. Điều này về mặt logic cũng tương tự như đề xuất của Liên Xô về việc mở các cảng của Việt Nam ở miền Nam mới giải phóng cho lực lượng vũ trang Liên Xô năm 1975 và bị Việt Nam từ chối.của một đề xuất như vậy để duy trì tính trung lập của nó trong cuộc cạnh tranh Trung-Xô. Điều quan trọng cần lưu ý là ngay cả khi Việt Nam cố gắng đảm bảo với Trung Quốc rằng động thái của họ đối với Hoa Kỳ không được thúc đẩy bởi ý định thù địch, thì cuối cùng Trung Quốc sẽ quyết định hướng hành động tiếp theo. Điều này giải thích tại sao Việt Nam muốn giữ nguyên hiện trạng trong quan hệ Việt-Mỹ hay trong chính sách đối ngoại nói chung và từ chối đề xuất của Hoa Kỳ về quan hệ đối tác chiến lược, dù chỉ là cái mác, để đảm bảo rằng mình mắc ít sai lầm nhất có thể.
Mặt khác, khi quan hệ Trung Quốc-Việt Nam xấu đi, Mỹ nên tiếp cận Việt Nam một cách nghiêm túc và sẵn sàng cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự hào phóng để giúp Hà Nội chống lại sự cưỡng bức của Trung Quốc. Mặc dù một hệ tư tưởng chung là một yếu tố quan trọng trong quan hệ Trung Quốc-Việt Nam, nhưng điều đó không có nghĩa là Việt Nam sẽ không đứng lên chống lại Trung Quốc khi an ninh của họ bị đe dọa. Một khi Việt Nam chấp nhận rằng không còn con đường nào khác mở ra cho mình sau nỗ lực vô ích nhằm giải quyết bất đồng với Trung Quốc đã thất bại vào tháng 10 năm 1977, Việt Nam đã nhanh chóng tham gia.Hội đồng tương trợ kinh tế do Liên Xô lãnh đạo vào tháng 6 năm 1978 và ký hiệp ước liên minh với Liên Xô vào tháng 10, mở ra cơ hội cho lực lượng hải quân và không quân Liên Xô đồn trú tại Việt Nam để đổi lấy sự đảm bảo an ninh của Liên Xô. Trong cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam năm 1979, áp lực quân sự của Liên Xô là rất quan trọng để hạn chế các hoạt động quân sự của Trung Quốc dọc theo biên giới Trung Quốc-Việt Nam.
Trong những năm 1980, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam khoảng 2,5 tỷ đô la viện trợ kinh tế và quân sự hàng năm, chiếm hơn 10% GDP của Việt Nam . Lãnh đạo Việt Nam lưu ý rằng sự hỗ trợ quân sự của Liên Xô là yếu tố quan trọng nhất đằng sau khả năng của Việt Nam trong cuộc chiến tranh hiện đại. Chỉ khi Liên Xô quyết định cải thiện quan hệ với Trung Quốc vào năm 1986 và áp dụng chính sách cắt giảm, Việt Nam mới phải miễn cưỡng nhượng bộ trước sự cưỡng ép của Trung Quốc theo các điều kiện của Trung Quốc vào năm 1991. Việt Nam có thể sẽ tiếp tục kháng cự nếu Liên Xô vẫn cònmột sức mạnh to lớn có khả năng. Nếu quan hệ Trung Quốc-Việt Nam xấu đi nghiêm trọng trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ yêu cầu ít nhất nhiều cam kết từ Hoa Kỳ. Chỉ riêng doanh số bán vũ khí của Hoa Kỳ là không đủ vì cán cân quân sự Trung Quốc-Việt Nam nghiêng hẳn về phía có lợi cho Trung Quốc, và hơn thế nữa trên biển . Việt Nam sẽ muốn có một sự đảm bảo an ninh của Hoa Kỳ giống như sự đảm bảo của Liên Xô trước khi áp dụng chính sách cân bằng với Trung Quốc.
Trong khi khả năng về một liên minh Hoa Kỳ-Việt Nam không phải là không, câu hỏi tiếp theo là liệu Hoa Kỳ có thể thực hiện đúng vai trò mà Liên Xô đã đóng với tư cách là người bảo đảm an ninh cho Việt Nam hay không. Lúc này, Mỹ thiếu cả khả năng và ý chí để bảo vệ Việt Nam. Đầu tiên, khác với Liên Xô, Mỹ là một cường quốc hàng hải . Như vậy, nó không thể gây áp lực quân sự trực tiếp lên Trung Quốc để ngăn chặn nước này phát động một cuộc xâm lược lớn vào Việt Nam như Liên Xô đã làm vào năm 1979 và những năm sau đó . Thứ hai, Mỹ phản đối một cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á, điều này có khả năng hạn chế sự bảo đảm an ninh của Mỹ đối với Việt Nam trong lĩnh vực hàng hải. Không phải ngẫu nhiên mà không có đồng minh châu Á nào của Washington có chung đường biên giới trên bộ với Trung Quốc. Và hợp tác an ninh Việt-Mỹ hiện nay chủ yếu là tập trung nâng cao năng lực hải quân Việt Nam.
Mặt khác, Trung Quốc là mối đe dọa toàn diện đối với Việt Nam cả trên đất liền và trên biển. Trung Quốc có thể dễ dàng thử thách liên minh Việt-Mỹ bằng cách phát động một số cuộc xâm nhập dọc theo biên giới Trung-Việt như họ đã làm vào năm 1979, 1980, 1981 hoặc 1984 . Và ngay cả trên biển, Trung Quốc đã thành công cho Việt Nam thấy rằng bất chấp sự hợp tác an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đang phát triển, Việt Nam về cơ bản đơn độc bất cứ khi nào Trung Quốc bắt nạt họ, như trường hợp năm 2014 , 2017 , 2018 và 2019. Cuộc tấn công của Trung Quốc vào bãi đá Gạc Ma của Việt Nam năm 1988 là một lời nhắc nhở về tính sai lầm của cam kết an ninh của bất kỳ cường quốc nào đối với Hà Nội. Và sự cưỡng ép của Trung Quốc sẽ không bị giới hạn trong cả lĩnh vực lục địa hay vùng biển như hành vi của họ đối với Việt Nam trong những năm 1980 đã thể hiện.
Nếu Hoa Kỳ muốn lôi kéo Việt Nam vào một liên minh chống Trung Quốc, họ sẽ phải đáp ứng nhu cầu của Việt Nam bằng cách đưa ra cam kết lâu dài và đáng tin cậy đối với an ninh của Việt Nam đủ mạnh để chống lại sự ép buộc của Trung Quốc. Thứ nhất, Hoa Kỳ cần tái khẳng định sự tôn trọng của mình đối với hệ thống chính trị của Việt Nam, điều mà Hoa Kỳ đã thực hiện ở một mức độ nào đó.thành công. Thứ hai, Hoa Kỳ cần phải chứng minh cho Việt Nam thấy rằng họ có thể bảo vệ an ninh của Việt Nam, cả trên đất liền và trên biển. Việt Nam sẵn sàng mở các cơ sở của mình cho các lực lượng vũ trang Liên Xô một khi cam kết cân bằng với Trung Quốc, vì vậy việc Mỹ tiếp cận các căn cứ của Việt Nam sẽ không thành vấn đề. Hoa Kỳ sẽ cần đóng quân đủ lớn trên đất Việt Nam để tăng cường khả năng phòng thủ của Việt Nam và đóng vai trò như một dây bẫy. Thứ ba, Mỹ cần chứng minh rằng họ có quyết tâm thực hiện việc ngăn chặn Trung Quốc trong dài hạn. Sau sự thay đổi chính sách của Liên Xô năm 1986, Việt Nam có bản chất sợ bị một cường quốc bỏ rơi. Cam kết của Hoa Kỳ đối với Việt Nam không nên suy yếu dần dựa trên những diễn biến ngắn hạn về chính trị trong nước của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có thể rút lui khỏi một cuộc xung đột một khi kiệt sức bắt đầu, nhưng Việt Nam sẽ phải chung sống với Trung Quốc mãi mãi.
Quản lý các kỳ vọng là cách hiệu quả nhất để tăng thêm chất cho mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam ngoài vấn đề nhãn mác. Nếu Hoa Kỳ có thể chứng minh với Việt Nam rằng họ có sự hỗ trợ của Việt Nam nếu mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam xấu đi, thì việc Hoa Kỳ là đối tác “toàn diện” hay “chiến lược” cũng không thành vấn đề. Nếu Washington không thể cam kết về an ninh đất liền của Việt Nam, thì tốt hơn hết họ không nên kỳ vọng vào cam kết của mình với Việt Nam để tránh bị Trung Quốc nghi ngờ. Theo quan điểm của Việt Nam, nếu liên minh với Hoa Kỳ để bảo vệ lợi ích hàng hải của mình, điều này sẽ vô tình biện minh cho các biện pháp trừng phạt của Trung Quốc trên đất liền và mở rộng tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và Việt Nam một cách không cần thiết do tình thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh. Vì “ sự chuyên chế của địa lý,” Việt Nam đang và sẽ luôn tập trung vào việc dập lửa gần (Trung Quốc) hơn là dựa vào nước xa (Mỹ). Mỹ cần chứng tỏ có thể vượt biển xa giúp Việt Nam khi cần thiết.
Lý Đại Việt (Nguồn The Diplomat)