RFA
Hôm 6/6/2024, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối Trung Quốc đưa tàu khảo sát Haiyang-26 vào khảo sát trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Khu vực tàu Haiyang-26 hoạt động được cho biết là ở ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.
Điều đáng chú ý là các lần xâm nhập vào vùng biển Việt Nam để tuần tra, khảo sát, các tàu Trung Quốc đều bật tín hiệu định vị AIS (hệ thống định vị tự động), do đó, không chỉ Việt Nam mà các nhà quan sát quốc tế đều biết hoạt động của Trung Quốc. Ở những lần đó, Việt Nam cho tàu đi theo giám sát nhưng hiếm khi phản đối công khai. Lần này, tàu Haiyang-26 tắt tín hiệu định vị AIS (hệ thống định vị tự động). Do đó, các nhà quan sát quốc tế đều không biết hoạt động của Trung Quốc, nhưng Việt Nam lại lên tiếng phản đối công khai.
Hoạt động của tàu Haiyang-26 và phản đối của phía Việt Nam diễn ra trong bối cảnh Chương trình AMTI của Trung tâm CSIS công bố khảo sát qua vệ tinh cho thấy Việt Nam đã tăng tốc bồi đắp đảo từ tháng 11, 2023 đến nay. Trong đó, bãi Thuyền Chài được bồi đắp dài đến 4.318 mét.
Câu hỏi đặt ra liệu xung đột giữa Trung Quốc và Philippines ở bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough có phải là nguyên nhân thúc đẩy Việt Nam đẩy nhanh xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa từ khoảng tháng 11 năm 2023 và hiện nay, công khai phản đối tàu Trung Quốc xâm nhập?
Ông Greg Poling, Giám đốc Chương trình AMTI của CSIS nói với RFA rằng rất khó để biết xung đột Philippines và Trung Quốc có tác động đến quyết định của Việt Nam hay không. Theo ông Greg Poling, hoạt động bồi đắp đảo của Việt Nam dường như có nhiều khả năng bắt nguồn từ hành vi quấy rối mạnh mẽ của Trung Quốc đối với tàu Việt Nam quanh Bãi Tư Chính kể từ năm 2021, chứ không phải những gì đang xảy ra với Philippines.
Trao đổi với RFA, nhà nghiên cứu Hoàng Việt cho rằng đúng là Trung Quốc đã xâm nhập rất nhiều lần vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Không chỉ Việt Nam, mà Trung Quốc đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, Indonesia, Philippines. Việt Nam đã nhiều lần không phản đối công khai. Còn lần này Việt Nam đã phản đối công khai tàu Haiyang 26. Ông giải thích với RFA:
“Như vậy lần này phải có một lý do gì đó đặc biệt. Lý do đặc biệt này là gì? Theo tôi được biết, tàu khảo sát Haiyang – 26 có nhiều vấn đề. Một, đây là con tàu mới đóng và rất lớn, trở thành một thứ “biểu tượng” của hải cảnh Trung Quốc. Hai là chúng ta nhớ là năm ngoái thì Việt Nam chỉ phản đối tàu sau khi tàu Trung Quốc xâm nhập, khảo sát 29 ngày, chứ không phải Việt Nam phản đối ngay. Lần này thì Việt Nam phải đối.
Chúng ta có thể đặt động thái này của Việt Nam trong bối cảnh chung trên Biển Đông. Philippines và Trung Quốc ngày càng căng thẳng trên bãi Cỏ Mây, bãi cạn Scarborough. Thậm chí, Philippines tố cáo Trung Quốc đang xây dựng đảo nhân tạo trên đá Sa Bin.
Có thể Trung Quốc đang “dương đông kích tây”, nhân lúc dư luận quốc tế tập trung vào xung đột Philippines – Trung Quốc thì họ sẽ làm gì đó nhắm vào Việt Nam. Nếu Việt Nam không thận trọng và nếu quốc tế quan tâm không đủ thì có thể bị Trung Quốc “ra tay”.
Tôi cho rằng có thể Việt Nam đã phát hiện ra Trung Quốc làm điều đó nên đã quyết định công khai phản đối.”
Vẫn không liên kết
Việc Việt Nam công khai phản đối tàu khảo sát Haiyang-26, thu hút sự quan tâm của quốc tế, đặt ra câu hỏi là liệu nước này có cần đến hỗ trợ từ nước khác? Liệu những cơ sở vật chất mới mà Việt Nam có thể đưa lên đảo nhân tạo vừa bồi đắp, mở rộng, có đủ khả năng giúp nước này phòng thủ đuợc truớc Trung Quốc không?
Trả lời câu hỏi này, TS. Nagao Satoru cho rằng Việt Nam “không tin tưởng vào sức mạnh răn đe của chính quyền Biden” đối với Trung Quốc. Kể từ khi chính quyền Biden rút khỏi Afghanistan, hình ảnh mạnh mẽ của Mỹ đã biến mất. Ngoài ra, việc Nga gây hấn ở Ukraine vào năm 2022 đòi hỏi Mỹ phải sử dụng nhiều nguồn lực hơn để hỗ trợ Ukraine. Năm 2023, Mỹ cần sử dụng nhiều nguồn lực hơn để hỗ trợ Israel. Theo TS. Nagao, trong khi Mỹ phải xuất kho vũ khí hỗ trợ Ukraine và Israel thì Trung Quốc bảo tồn được kho vũ khí của mình. Họ chỉ hỗ trợ Nga bằng cách cung cấp nguyên liệu sản xuất vũ khí cho Nga. Điều này có nghĩa là kho vũ khí Mỹ đang giảm dần nhưng kho vũ khí của Trung Quốc vẫn giữ nguyên. Do đó, Việt Nam có thể lo lắng về việc họ có thể nhận được bao nhiêu nguồn lực quân sự từ Mỹ nếu xung đột trên Biển Đông với Trung Quốc xảy ra. TS. Nagao cho rằng đó là lý do Việt Nam phải nỗ lực tự bảo vệ các đảo mình đang quản lý.
Theo TS. Nagao, việc Hoa Kỳ không ngăn cản hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông các năm trước đây cũng làm cho Việt Nam không tin tưởng vào khả năng ngăn chặn Trung Quốc của siêu cường này.
Ngoài ra, sự khác biệt về giá trị dân chủ và thể chế chính trị cũng là vấn đề ngăn cản khả năng liên kết của Việt Nam với Hoa Kỳ. Theo TS. Nagao, chính quyền Biden tiến hành các hoạt động “Hội nghị thượng đỉnh vì dân chủ” nhưng Việt Nam không thể tham gia. Mối liên kết chặt chẽ của Việt Nam với Nga cũng làm cho Việt Nam không thể nằm trong vòng vây của Mỹ chống lại Nga. Do đó, theo TS. Nagao, mối quan hệ Mỹ – Việt hiện nay không mấy bền chặt. Việt Nam lo lắng về chính sách của Mỹ và Mỹ cũng lo lắng về chính sách của Việt Nam.
Trao đổi với RFA, ông Greg Poling nhấn mạnh rằng “liên kết” không phải là sự lựa chọn của Việt Nam. Bởi vì Việt Nam có thể củng cố cơ sở vật chất của mình, đồng thời hợp tác với Philippines và các nước khác để gây áp lực buộc Trung Quốc phải thay đổi hướng đi.
Hôm 11/6/2024, Chủ tịch nước Việt Nam ông Tô Lâm, mới nhậm chức hôm 22/5, đã nói với Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam là ông Hùng Ba rằng hai bên cần kiểm soát tốt vấn đề tranh chấp lãnh hải và quyền lợi của mỗi quốc gia phải được tôn trọng.