NGUYỄN THANH MỪNG / Văn học Saigon
Quê Đồng Hới – Quảng Bình nhưng thi tài Hàn Mặc Tử chói sáng đỉnh điểm khi về sống ở Quy Nhơn – Bình Định những năm cuối cuộc đời ngắn ngủi. Có một thiên cơ giữa đất và người…
1.Từ tuổi học trò ở Quy Nhơn những năm sáu mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã rất ngưỡng mộ thơ Hàn Mặc Tử và xem vết tích của ông để lại ở đất này là niềm tự hào và quyến rũ: Ngôi nhà tuổi thơ số 20 đường Khải Định (nay là ngã tư Lê Lợi – Nguyễn Du); mái trường College ông dệt mộng đèn sách; thư viện nơi ông bươn bả với kiến thức kim cổ đông tây; bãi biển trăng và cát vàng mộng mị; những con đường rụt rè, những tình yêu; căn phòng thơ và bạn bè; xóm Tấn nơi lánh bệnh; nhà thương phong điều trị bệnh và ngôi mộ trên đồi Ghềnh Ráng…
Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912 – 1940)
Lời bài hát “đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà…” đã ru chúng tôi vào một Quy Nhơn hoang sơ đẹp và buồn của mối tình thi sĩ và cái dốc Mộng Cầm đã trở thành địa danh nôn nao bổi hổi. Tôi có duyên may được gặp gỡ và trò chuyện với ba trong bốn nhà thơ lớn của nhóm “Bàn Thành tứ hữu” là Quách Tấn, Yến Lan và Chế Lan Viên. Thông qua họ, tôi hiểu thêm về Hàn Mặc Tử trong lòng những người bạn của ông. Bây giờ trong cõi xa kia, bốn người bạn thân ở thành Đồ Bàn đã gặp lại nhau nơi cõi khác, chẳng chỉ “nửa đêm trăng tà” mà còn bất cứ lúc nào, như ngày xưa trẻ trung ở Quy Nhơn, trong những lần tìm đến nhau, thăng hoa trong thơ ca và tình bạn. Hàn Mặc Tử sinh ngày 12 tháng 8(âm, nhằm ngày 22/9/1912, mùa trăng, Chúa nhật, ngày của Chúa,…).
2. Hàn Mặc Tử không phải một tông đồ truyền giáo mà là “loài thi sĩ” đã xác lập định mệnh thơ với nguồn mạch của một thế giới tân kỳ, không phải đi rao giảng đức tin tôn giáo mà quán chiếu trời thơ như một sứ điệp của tình yêu cuộc sống hoàn vũ. Không phải là linh mục để thực hiện nghi thức bí tích, nhưng Hàn Mặc Tử vẫn là một kẻ chăn chiên chăn dắt tình yêu và gieo vào ân sủng thơ ca một mùi dầu thánh.
Tôi đã lặn lội trong âm thanh tuyệt diệu và mầu nhiệm những bài ca của Sa-lô-môn trong Kinh Thánh, tìm một nguồn gốc của sự vui vẻ thanh sạch và cao quý những nam nữ rất thanh khiết “như con hoàng dương hay là như con nai con ở trên các núi thuốc thơm” để quay về với đời và thơ Hàn Mặc Tử. Đó là một tình yêu tràn trề chảy qua vườn nho chín mọng, hoa tường vi trắng hồng, lai láng dưới răng, lưỡi, bầu vú, trong ngũ quan líu lo những mật ong và sữa. Khi người ta yêu nhau, có thể lắng nghe mọi âm thanh ngây ngất, nhìn mọi chi tiết đắm đuối của thân tâm trong bản giao hưởng thế giới tạo vật muôn trùng.
Hàn Mặc Tử, dưới góc độ nào đó, ở đầu thế kỷ XX phân thân trong hoàng đế Sa-lô-môn, trong kẻ lương nhân, và trong cả cô gái đồng trinh mà mấy nghìn năm rồi, thường hằng trong thánh ca bất tử: “Nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người. Vì ái tình chàng ngon hơn rượu. Danh chàng thơm như dầu đổ ra; Bởi cớ ấy các gái đồng trinh yêu mến chàng. Hãy kéo tôi; chúng tôi sẽ chạy theo chàng, Vua đã dẫn tôi vào phòng Ngài. Chúng tôi sẽ vui mừng và khoái lạc nơi chàng. Các gái đồng trinh yêu mến chàng cách chánh trực”. Và bắt đầu một hành trình sáng tạo, Hàn đã lấy máu làm mực, lấy trăng làm giấy, kẻ lên đó những vần thơ khai phóng làm ngây ngất những tinh cầu: “Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt/ Như đón từ xa một ý thơ“.
Hàn Mặc Tử bày biện cuộc mình như một thánh lễ, giấy bút vào hành trình: “Mực lùa khí vị vô hồn chữ/ Văn hút hào quang ở miệng ra“. Dù khi hối hả (như một cái máy vi tính tiên tri mà thời Hàn chưa có): “Thơ chưa ra khỏi bút/ Giọt mực đã rụng rồi/ Lòng tôi chưa kịp nói/ Giấy đã toát mồ hôi” hay trầm tĩnh thức nhận “Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ/ Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ“, và niềm sám hối “Đời không có ngọc trong pho sách/ E chết khôi nguyên ở Phượng Trì” luôn luôn là nỗi ám ảnh để nhà thơ đi tìm châu báu trong trần gian: “Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm/ Còn mặt trời kia tợ khối vàng“. Thánh lễ của Hàn, từ cuộc khai tâm “Thuở ấy càn khôn mới dựng nên/ Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên/ Người thơ phong vận như thơ ấy/ Nào đã ra đời ngọc biết tên“, qua rửa tội “Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi/ Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng“, đến cuộc hòa minh: “Anh đứng cách xa hàng thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười anh cũng cười theo dọi/ Để nhắn hồn em đã tới nơi“, rồi ơn gọi: “Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu/ Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu/ Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang” cho tới tận cùng “Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết/ Trải niềm đau trên trang giấy mong manh/ Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết/ Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh” là thánh lễ của một kẻ tuẫn đạo để cứu rỗi. Điều này thuộc về định mệnh. Bầy chiên ngôn ngữ đã được quán triệt trong thể xác và linh hồn người thơ, và người thơ lộn trái thịt da cốt tủy ra trình bày dưới ánh sáng, theo một nhu cầu nội tại chân thực và thành kính. Hàn Mặc Tử đã tự thắp những vầng trăng trên thánh lễ, từ y phục: “Áo ta rách rưới trời không vá/ Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng” đến lương thực: “Trời hỡi làm sao cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn” đến tiện nghi: “Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải” và trải nghiệm “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” nhưng cuối cùng vẫn chơi trên trăng với mục đích: “Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường thổi/ Để hớp tinh anh của Nguyệt Cầu/ Và để thoát ly ngoài thế giới…“. Tự gọi tên “Máu cuồng và Hồn điên“, Hàn Mặc Tử đã trải qua những cơn đau đớn giày vò về thể xác lẫn tinh thần, muốn thoát hồn ra ngoài xác thịt mà “Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng“, một cự ly quán thế cả và thiên hạ để “Ràng rịt mãi cho tới ngày tận thế“. Đó là cuộc lữ hành lý tưởng của “loài thi sĩ” để tìm một nụ cười an lạc trong niềm đau cùng cực của một hình hài.
3.Nỗi cô độc của một thiên tài thơ ca là nỗi cô độc trong sum vầy, như đỉnh núi đột khởi giữa điệp trùng gò đống. Đời Hàn Mặc Tử luôn luôn hiện hữu song hành với thơ Hàn Mặc Tử, trong tình yêu của mọi người dành cho Hàn Mặc Tử suốt trăm năm nay. Và dù chưa
có một thống kê xã hội học chính thức, tôi vẫn nhận thấy mộ Hàn Mặc Tử trở thành một trong những địa điểm hành hương được người mến mộ viếng thăm nhiều nhất trong số các nhà thơ Việt! Tôi đã đọc trong nước mắt của những vần thơ do khách đa tình sau mấy thế hệ viếng Hàn, nghe rào rạt sức sống của Hàn trong nguồn cảm hứng tinh khôi của họ, như dành cho người lương nhân trong Nhã Ca: “Vừa sớm mai, chúng ta sẽ thức dậy, Ði đến vườn nho, đặng xem thể nho có nứt đọt, Hoa có trổ, thạch lựu có nở bông chăng: Tại đó tôi sẽ tỏ ái tình tôi cho chàng. Trái phong già xông mùi thơm nó; Và tại cửa chúng ta có những thứ trái ngon mới và cũ; Hỡi lương nhân tôi, tôi đã để dành trái ấy cho chàng!“.
Chúng ta đều biết, ở Bình Định có vị anh hùng kiệt xuất Quang Trung – Nguyễn Huệ và cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trình bày thánh tích của một thiên tài. Thiên tài quân sự bách chiến bách thắng đã đưa một người nông dân lên ngôi hoàng đế, đưa những tấc sắt thành lưỡi gươm thiêng đại định thiên hạ. Tất nhiên, không ai đi so sánh 39 năm hiển hách huân nghiệp của một người bước lên ngai vàng với 28 năm của một dân đen dù dân đen ấy là một thiên tài thi ca mang tên Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó, nhà thơ đồng nghĩa với anh hùng văn hóa. Ai dám bảo đạo quân chữ nghĩa của Hàn Mặc Tử không phải được sinh thành bởi hương thơm và ánh sáng, không có khả năng chinh phục nụ cười nước mắt của thiên hạ trong nhiều thế kỷ tiếp theo.
Sự ngắn ngủi của đời họ là dồn nén của bùng nổ và nguồn cảm hứng thiên hạ dành cho họ sẽ không bao giờ vơi cạn. Thửa ruộng Hàn Mặc Tử, tòa nhà Hàn Mặc Tử, ngôi đền Hàn Mặc Tử sẽ làm cuộc giãi bày cho đến muôn sau, trong cuộc cứu rỗi thi ca thiên khởi, uyên nguyên, xa lạ với cuộc ma-ra-tông rượt đuổi trường phái, chủ thuyết, trào lưu, nắm chiếc đuôi khôn ngoan của cỗ xe ngựa triết học kinh viện. Cái đời thơ kỳ lạ ấy đã thực hiện sứ mệnh như một thiên thần bị đày đọa, đã đau khổ và yêu thương đến cùng cực khi trót một lần hẹn thề cùng cõi nhân gian
(Văn hóa-Giáo dục-Đời sống)