Saturday, November 23, 2024
No menu items!
spot_img
HomeKiến ThứcCái Văn, Cái Vẽ, Và Cái Đẹp

Cái Văn, Cái Vẽ, Và Cái Đẹp

(Trần Thị Lai Hồng)

Mượn tựa đề của Võ Đình, nhân dịp Tết, để nhắc lại cái văn- chữ nôm/thơ nôm – cái vẽ, và cái đẹp trong đường nét, màu sắc và ý nghĩa văn hóa tranh dân gian Việt Nam xưa.

Tranh dân gian có từ ngàn năm trước. Theo Phan Huy Chú trong Lịch Triều Hiến Chương, nghề vẽ tranh có từ triều Lý (1010-1225) và Trần (1225-1400). Khi quân nhà Minh bên Tàu sang xâm lăng ta (1414-1417), chúng đã lấy theo cả sáu chục tập tác phẩm in ấn của ta đem về nước. Tuy nhiên, ngành nghề khắc trên gỗ và in tranh dân gian ghi nhận Lương Nhữ Học là thánh tổ. Đậu Thám hoa và làm quan dưới triều vua Lê Thánh Tôn từ năm 1442, ông được cử đi sứ sang Tàu hai lần, đã chú ý tìm hiểu nghề khắc và in mộc bản, một nghề vốn có của cha ông, đem về truyền dạy lại cho dân làng LiễuTràng, Hồng Lục và Khuê Liễu huyện Trường Tôn, tỉnh Hải Dương. Trong số các tác phẩm in ấn của nghệ nhân vùng này, có hàng ngàn bộ sách quý, trong số có Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên. Hiện tại làng Liễu Tràng vẫn còn đền thờ Lương Nhữ Học, gọi là Chùa Tràng.

 Tranh mộc bản Rước Rồng

Tranh dân gian Việt Nam có giá trị rất lớn đối với văn hóa Việt Nam, nhất là tranh có chú thích Chữ Nôm. Chẳng vậy mà thời Pháp thuộc, người Pháp đã cố công lưu giữ làm tài liệu. Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội đã thu thập rất nhiều tranh dân gian Việt Nam, và lần đầu tiên đem triển lãm ngay tại Hà Nội năm 1949, tức là cách đây trên 60 năm, và sau đó đưa sang trưng bày tại Bảo tàng viện Guimet ở Paris, Pháp, năm 1960. Những hội viên Hội Nghiên Cứu Đông Dương và những nhà sưu tầm thời đó, hoặc là người Pháp như các cô J.Auboyer, t’Serstevens, các ông Paul Lévy, Louis Bezacier, và người Việt như Trần Văn Giáp, Trần Huy Bá, đã góp phần rất lớn trong việc bảo tồn này. Công trình đặc biệt nhất phải kể đến các học giả chuyên về Việt Nam, Maurice Durand với Imagerie Populaire Vietnamienne, do Trường Viễn Đông Bác Cổ xuất bản năm 1960 tại Paris, Maurice Durand và Pierre Huard với Connaissance du VietNam, và Henry Oger với Introduction Générale à l’Etude de la Technique du Peuple Annamite, và Technique du Peuple Annamite: Planches, cả hai xuất bản tại Paris 1908.Bài viết này đa phần dựa trên những sách vừa kể, vì những sách đó in tranh đầy đủ chú thích Chữ Nôm là phần quan trọng, trong khi một số sách trong nước mới in lại sau này đã xóa bỏ phần chú thích Chữ Nôm, không biết rằng đó mới chính là giá trị lịch sử chữ viết Việt Nam. Rất đáng tiếc!

Tranh dân gian có ngót cả năm ngàn tấm dưới nhiều đề tài, chia làm nhiều loại.

Tranh tôn giáo và tín ngưỡng, vẽ Chư Phật Chư Thánh Chư Tăng Chư Thần… Tử vi Chiếu trạch, Huyền đàn Trấn Môn…Tranh lịch sử, vẽ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Vua Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền…Tranh giáo dục, tranh truyện, tranh thơ từ Truyện Trê Cóc, Trinh Thử, Thạch Sanh, Hoa Tiên ,Phan Trần, Quan Âm Thị kính, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều…  cho đến Tây Du Ký, Tam Quốc, Thủy Hử…Tranh phong cảnh, trang trí, cúc trúc lan mai, tố nữ, tứ bình…Tranh sinh hoạt xã hội, dạy học, làm ruộng, làm nghề chuyên môn, buôn bán chợ búa, gánh gồng, kéo xe, cày ruộng, tát nước, rước trạng, rước dâu, đám cưới, đám tang…Tranh châm biếm, khôi hài, trong số có tranh chuột và mèo, cóc, hứng dừa, đánh ghen, đua đòi mốt mới văn minh Tây phương…Tranh chúc tụng, Phước Lộc Thọ, Phú Quý Vinh Hoa, Thăng Quan Tiến Chức, mừng tân gia, mừng đám cưới… ***Tranh dân gian phổ biến nhất là tranh Tết có mặt trong tất cả các loại vừa kể. Bài này chỉ đưa ra một số tranh có chữ nôm, là bằng chứng cổ nhân đã cố tìm đường gột bỏ dấu vết nô lệ, tuy vẫn còn dây dưa ảnh hưởng “chệt hóa”.Bức tranh trên đầu bài là lũ chuột cờ xí đánh trống thổi kèn đèn lồng rồng cá toàn đường nét Tàu, nhưng vớt lại được có hai chữ nôm ghi Rước Rồng.Hai bức dưới đây đặc biệt đi vào văn học sử:

Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột/ om sòm trên vách bức tranh gà

(Tú Xương, Tết)

Tranh Đông Hồ, gà lợn nét tươi trong/ màu dân tộc sáng ngời trên giấy điệp

(Thơ Hoàng Cầm, Bên Kia Sông Đuống)

 Về màu sắc tranh quê, Lê Văn Hòe viết trong bài Lẽ Sống của tranh Gà Tranh Lợn đăng trên báo Xuân Văn Nghệ Quý Tỵ, xuất bản tại Hà Nội năm 1953: “Tranh gà tranh lợn đỏ như xôi gấc, vàng như màu lúa chín, xanh như lá mạ, hay và ng như nghệ kho cá, xanh như cốm non, đỏ như ngô già, nâu như đất cầy, toàn những màu sắc quen thuộc thân mến từ bao nhiêu đời người rồi. Những màu sắc ấy in sâu vào tâm não nông dân, hết thế hệ này đến thế hệ khác thành những màu sắc dân tộc rồi. Những màu sắc xanh đỏ chói rực của tranh Tàu, tranh Tây nó chướng quá, nó không mộc mạc, quen thuộc như những màu xanh đỏ thô kệch, điềm đạm, thật thà của tranh lợn tranh gà.”

 Nói đến tranh tết, phải kể những thú vui Xuân. Dưới đây là hai tấm tranh Xuân:

 Tranh bên trái là Du Xuân Đồ, tựa đề hoàn toàn “chệt  lớn góc trái phía trên. Nhưng bên cạnh, phía phải, là bốn câu thơ nôm tả cảnh chơi Xuân: Thời bình mở hội Xuân /nô nức quyết xa gần/ nhạc dâng ca trong điện/ trò thưởng vật ngoài hiên. Góc trái có hai người thò tay vào một lu hay bọc lớn, có thể là trò bắt trạch trong lu. Trong nhà có một người đàn một người ca và hai ông quan thưởng thức ca nhạc. Ngoài sân có trò đô vật và chơi bài phu gồm bốn người ngồi chơi, hai người chạy cầm bài, giữa là bình đựng thẻ bài.

 Bốn tay chơi bốn góc theo thứ tự kim đồng hồ từ trên phải xuống:

 – Giáp, bên phải có hai câu thơ nôm Bán chi không đánh nhất văn/ bát văn cầm kết bấy phần gia cao.

 – Ất, góc phải, dưới:  Bài tôi ăn thưởng không thang/ lục văn cũng nghĩ  kết ngang chẳng cầm.

– Bính, phía trên bên trái: Tam khôi bắt ngỏ rõ ràng/ mừng bỏ đứng dậy tâm trường múa lên.

 – Đinh, dưới góc trái: Hàng văn làng hãy còn cầm/ cầm chơi một ván đánh liều thử xem.

 Tranh bên phải là Thưởng Xuân Đồ, vẫn tựa đề lớn rất “chệt” ở góc phải phía trên. Quang cảnh nhựng thú chơi Xuân diễn quanh sòng “xóc dĩa”. Chủ sòng ngồi trên sập trong nhà có gối dựa, bà vợ ngồi cạnh đếm thẻ.  Nhà cái là ông mập ngồi xệp trước sập.  Bốn câu nôm trên đầu nhà cái:  Bốn đồng trong chận lấy/ mua bán mới liền tay/ Rượu chè dù thích chí/ thua, được, lại càng say. Dưới chân ông mập nhà cái có hai chữ nôm bán chẵn.

 Cảnh quanh sòng bài, bên phải có bà nạ dòng chỉ mặc yếm và quần cũn cỡn, lôi kéo ông chồng, có hai câu nôm: Ông Hai xóc dĩa mời về/ gái này đương muốn ngứa nghề với ông. Bên dưới ông chồng trần trùng trục là một ông ngồi, trước mặt có hai chữ gia nội.

 Phía trái có một cặp. Chàng đánh trần đưa bụng phệ, nàng đứng cạnh cầm một dung vải dài, phía trái có hai câu nôm: Khố này chính lụa Cổ Đô/ quả nhiên ngồi chận xin cô hãy cầm. Lụa Cổ Đô ở Sơn Tây nổi tiếng tốt, đẹp và bền. (Còn tiếp)

RELATED ARTICLES
- Advertisment -
Google search engine

Most Popular

Recent Comments